Sông Hàm Luông và Cổ Chiên là nơi anh Đạt thường xuyên "săn" cá ngát. Anh Đạt cho biết, hang cá ngát thường có một cửa chính và từ 2 - 3 ngách để tẩu thoát khi gặp nguy hiểm. Bắt cá cũng chẳng dễ vì chúng thấy động là giương vây căng ngạnh phóng như… tên bắn. Tranh thủ thời gian rảnh sau khi lo xong khu vườn anh Đạt lại nhổ neo đi bắt cá ngát.
Đô Thị Chi Bất Tử Thiên Tôn. Truyền thuyết cổ xưa . Giữa thiên địa phân tam giới, nhất là Thiên Đình, hai là nhân gian, ba vì Địa Phủ . Truyền thuyết Địa Phủ bên trong, có Thập Điện Diêm La, Ngưu Đầu Mã Diện, Hắc Bạch Vô Thường, còn có đáng sợ mười tám tầng
Hà Nội). Do thấy Tuyến mặc áo nhân viên y tế nên bác sĩ Thành đã hỏi một số nội dung nhưng Tuyến lúng túng không trả lời được. Nghi ngờ Tuyến giả mạo nhân viên y tế nên bác sĩ Nguyễn Tiến Thành đã yêu cầu Tuyến cùng người nhà cháu bé xuống Khoa Phụ sản để xác
Năm 2014, đã có một nhóm thanh niên sau khi nhậu, hút cần sa thì bắt đầu đập phá đồ đạc, gây gổ và đâm chém lẫn nhau. Ngoài những ảo giác nguy hiểm kể trên, hút cần sa còn gây viêm phế quản mạn tính, làm hẹp đường thở, làm cho máu người hút chứa hàm lượng khí
BÌNH HOA PHA LÊ MÀU NHẬP KHẨU 8762E/30/25/71Mã sản phẩm: 8762E/30/25/71- Màu sắc: đồng-Kích thước: 28cm- Chất liệu: Pha lê cao cấp- Xuất xứ: Cộng Hòa Czech (Tiệp Khắc)- Sang trọng, tinh tế, ấn tượng
Nhà cửa cháy tứ phía, khói lửa bốc mịt mù. Tòa khâm sứ bị thiệt hại nặng, nhà kho nhà ở sụp đổ và bốc cháy. lúc vua Tự Đức còn sống. Do bắt đầu lo sợ trước trước rồi phái Nguyễn Văn Tường đứng đốc công xây thành. Tân Sở có nghĩa là "Kinh đô mới
Trong khi đó, Lộc Hàm không thể đến viếng nhưng anh đã gửi vòng hoa cùng lời tiếc thương của mình. Ngày 14/9, lễ tiễn đưa hài cốt của bố Hoàng Tử Thao đã được tổ chức. Báo chí Trung Quốc đưa tin, nam ca sĩ dành một hội trường nhỏ để chia buồn cùng người thân và
ogAh. Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết Cái văn Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1] Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, Nhi hào kiệt thế vị thường phạp. Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2] Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng. Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, Trí sử nhân tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương sinh ư ngược diệm, Hãm xích tử ư họa khanh. Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức; Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, Điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha; Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, Lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần dân chi sở cộng phẫn, Thiên địa chi sở bất dung. Dư Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Niệm thế thù khởi khả cộng đái, Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí Ngộ mị bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, Chính tặc thế phương trương chi nhật. Nại dĩ Nhân tài thu diệp, Tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch. Phẫn hung đồ chi vị diệt, Niệm quốc bộ chi tao truân. Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm, Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ. Tốt năng Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Bồ Đằng chi đình khu điện xế, Trà Lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, Quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách, Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu; Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương. Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần. Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến, Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong, Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã; Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu, Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ. Ngã toại nghênh nhận nhi giải, Bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, Thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy càn, Ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, Tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghĩ ư băng đê, Chấn cương phong ư cảo diệp. Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản, Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ, Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang. Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết; Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại, Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ; Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức. Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn, Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã tắc dĩ chi điện an, Sơn xuyên dĩ chi cải quán. Càn khôn ký bĩ nhi phục thái, Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã. Ô hô! Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công; Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, Hàm sử văn tri. Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng. Từng nghe Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi. Vừa rồi Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây thù kết oán trải mấy mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nổi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần dân chịu được? Ta đây Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.
Tác giả tác phẩm lớp 8 Nước Đại Việt taHoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm Nước Đại Việt taI. Đôi nét về tác giả Nguyễn TrãiII. Đôi nét về bài thơ Nước Đại Việt taIII. Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt taBài thơ Nước Đại Việt ta Nguyễn Trãi là tác phẩm được học trong chương trình Ngữ văn 8 học kì 3. Để giúp các em học sinh nắm vững tác phẩm này, VnDoc gửi tới các bạn tài liệu Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm Nước Đại Việt ta. Hy vọng thông qua tài liệu này, các em sẽ dễ dàng triển khai các đề văn liên quan tới tác phẩm. Sau đây mời các bạn tham khảo chi ngheViệc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng nênLưu Cung tham công nên thất bại;Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;Cửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét,Chứng cứ còn Đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi1. Tiểu sử tác giả Nguyễn TrãiNguyễn Trãi 1380 - 1442 hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại Chí Linh, Hải Dương sau dời về Nhị Khê Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh một nhà nho nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh Tiến sĩ thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ ngang Tể tướng Trần Nguyên Trãi sinh ra trong một gia đình mà bên nội cũng như bên ngoại đều có hai truyền thống lớn yêu nước và văn hóa, văn 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, cùng cha làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 14074, giặc Minh cướp nước, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi khắc sâu lời dạy của cha, sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh ông tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi năm 1427 đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên do mâu thuẫn nội bộ triều đình, ông bị bắt giam và không còn được tin tưởng như trước, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn ở Côn 1440, ông được Lê Thái Tông mời ra giúp việc nước. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị oan án Lệ Chi viên và bị tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi sau đó cho sưu tầm lại thơ văn của ông và tìm con cháu còn sống sót để bổ làm Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Năm 1980, UNESCO đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế Sự nghiệp văn học của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các áng văn chính luận của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc Đôi nét về bài thơ Nước Đại Việt ta1. Hoàn cảnh sáng tác- Đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh vua Lê Thái Tổ Lê Lợi soạn thảo Bình Ngô đại cáo để thông cáo với toàn dân về sự kiện có ý nghĩa trọng đại Thể loại Cáo3. Bố cục- Chia làm 3 phần+ Phần 1 Hai câu đầu Tư tưởng nhân nghĩa+ Phần 2 Tám câu tiếp theo Chân lí về sự tồn tại độc lập của đất nước+ Phần 3 Sáu câu cuối Minh chứng cho sức mạnh nhân nghĩa của dân tộc4. Giá trị nội dung- Đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập Nước ta là đất nước có nền văn hiến, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử…bất kì hành động xâm lước trái đạo lí nào của kẻ thù đều sẽ phải chịu một kết cục thất bại5. Giá trị nghệ thuật- Áng văn chính luận với lập luận chặt chẽ- Chứng cứ hùng hồn giàu sưc thuyết phục- Lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của dân tộc- Lời văn biền ngẫu nhịp nhàngIII. Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt taI/ Mở bài- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi- là một vị tướng tài của dân tộc, thêm nữa còn là một nhà thơ là một nhà yêu nước nồng nàn- Bài “Nước Đại Việt ta” – một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền dân tộc và nêu rõ rằng nước ta hoàn toàn tự chủ, độc lập, tự cườngII/ Thân bài1. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa- “Yên dân”- làm cho nhân dân được hưởng thái bình, hạnh phúc- “Trừ bạo” Diệt mọi thế lực tàn bạo để giữ yên cuộc sống cho nhân dân⇒ Nhân nghĩa là lo cho dân vì dân, là yêu nước, chống quân xâm lược là ngăn chặn mọi thế lực có thể làm hại đến dân, cho nhân dân hưởng thái bình hạnh phúc2. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyềnLời thơ khẳng định chân lí về sự độc lập của dân tộc thông qua việc chứng minh đất nước ta là một đất nước có- Có nền văn hiến riêng- Có lãnh thổ riêng- Có phong tục riêng- Có lịch sử riêng- Có chế độ, chủ quyền riêng⇒ Chứng cứ hùng hồn giàu sức thuyết phục, lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của dân tộc, lời văn biền ngẫu nhịp nhàng => khẳng định Đại Việt là một quốc gia có độc lập chủ quyền, là một nước tự lực tự cường, có thể vượt mọi thử thách để đi đến độc lập3. Sức mạnh của nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc- Sức mạnh làm cho kẻ thù thất bại thảm hại, sức mạnh ấy đập tan mọi khó khăn mọi thử thách⇒ Đó là hậu qủa của những kẻ xâm lược phi nghĩa làm trái mệnh trời, những kẻ dám làm tổn hại đến dân tộc ta chắc chắn không có kết quả tốt Kết bài- Khẳng định lại giá trị nghệ thuật, nội dung của văn bản Bài Cáo của Nguyễn Trãi có thể nói như một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định rõ ràng chủ quyền dân tục- Liên hệ bản thân Cần cố gắng giữ gìn bảo vệ đất nước, cô gắng khẳng định đất nước trên đấu trường quốc tế với bạn bè năm châu......................................Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm Nước Đại Việt ta đã được VnDoc hướng dẫn chi tiết trên đây, giúp các em học sinh lập ra chi tiết dàn ý cũng như hoàn cảnh sáng tác tác phẩm. Hy vọng với tài liệu này sẽ giúp ích cho các em nắm chắc nội dung tác phẩm cũng như hoàn thiện tốt bài văn được vậy là chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn bài Bài thơ Nước Đại Việt ta Nguyễn Trãi - Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm. Mời các bạn tham khảo thêm chuyên mục Tác giả, tác phẩm lớp 8 và các đề thi học kì 2 lớp 8 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc. Hy vọng rằng tài liệu lớp 8 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp ra để các em có thể trao đổi bài tập cũng như hỏi ý kiến giáo viên VnDoc các em truy tập vào Fanpage Facebook hoặc Tài liệu học tập lớp 8 sẽ được giao lưu học hỏi miễn phí. Chúc các em học tập tốt
Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” có câu “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô –Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”. Thông tin trên có gì chưa đúng? Đô bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt Đô bị bắt ở Chương Dương Mã Nhi bị giết ở Hàm Mã Nhi bị bắt ở Hàm Tử Tìm hiểu thêm về hai câu cửa hàm tử bắt sống toa đô sông Bạch đằng giết tươi ô mãTìm hiểu những trận chiến đó Các câu “Lưu Cung tham công nên thất bại – Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong – Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô – Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã” được dùng để thể hiện hành động kể. Đúng hay sai? A. Đúng B. Sai Vậy nênTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongSông Bạch Đằng giết tươi Ô đang xem Cửa hàm tử bắt sống toa đô A. Nghị luận + miêu tả B. Nghị luận + tự tự C. Miêu tả + tự sự D. Nghị luận + thuyết minh. Vậy nên“Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xétChứng cớ còn nghi.”Từ nội dung của văn bản trên, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 - 12 câu trình bày suy nghĩ của em về ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Tham khảoÔng đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù"Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi".Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả. Đúng 0 Bình luận 0 tham khảoLưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xétchứng cứ còn ghi. Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian Đúng 0 Bình luận 0 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. cho mình hỏi bài thơ trên vi pham phương chăm hội thoại nào ?? Lớp 9 Ngữ văn Hướng dẫn soạn bài Các phương châm hội thoại 1 0 Gửi Hủy đoạn thơ không vi phạm nhé bạn.....nó chỉ nói đến phương châm hội thoại về chất nêu các dẫn chứng có thật trong lịch sử Đúng 0 Bình luận 2 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. vi phạm phương chăm hội thoại nao zạy các bạn ??? Lớp 9 Ngữ văn Văn bản ngữ văn 9 1 0 Gửi Hủy phương châm cách thức hay sao đó bn Đúng 0 Bình luận 0 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo giúp với Lớp 7 Lịch sử Bài 21. Ôn tập chương IV 4 0 Gửi Hủy Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh chóng. Đúng 2 Bình luận 1 tham khảo bài làm ạCâu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 1 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 0 Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu…Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng nênLưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi1. Trong đoạn trích, Nguyễn Trãi đã đưa ra những cơ sở nào để khẳng định nền độc lập, chủ quyền của nước ta? Nêu nhận xét của em về những cơ sở Tìm và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích?3. Bày tỏ cảm nghĩ của em về đoạn văn trên học sinh có thể gạch ý Lớp 10 Ngữ văn 0 0 Gửi Hủy Lớp học trực tuyến KHTN 7- Cô Quyên, cô Hương Toán 7- Thầy Dương Khoá học trên OLM hoặc
Từ lâu, cửa Hàm Tử đã là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Nguyên năm 1285. Vậy cửa Hàm Tử ở đâu? và lịch sử hào hùng của cửa Hàm Tử như thế nào? Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết sau đây của GiaiNgo để được biết thêm chi tiết. Hàm Tử ở đâu? Hàm tử ở đâu? Hàm Tử là một xã thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Xã Hàm Tử có tổng diện tích khá nhỏ là 4,65 km². Dân số năm 1999 của xã là 6143 người, mật độ dân số đạt người/ bộ xã được chia thành 3 thôn An Cảnh, Xuân Đình, Hàm Tử. Tên xã đã được đặt theo địa danh lịch sử nổi tiếng là cửa Hàm Tử hay còn được biết đến với cái tên Hàm Tử quan. Nơi đây diễn ra trận Hàm Tử trong cuộc Kháng chiến chống quân Nguyên 1285 của quân dân Đại Việt. Hàm Tử là gì? Trong từ điển tiếng việt, Hàm Tử được hiểu là ánh xạ từ một phạm trù này vào trong một phạm trù khác, phù hợp với cấu trúc của các phạm trù. Khái niệm Hàm Tử khái quát hoá các khái niệm ánh xạ tuyến tính giữa các không gian vectơ, ánh xạ liên tục giữa các không gian tôpô, đồng cấu giữa các nhóm, vành,… Trận Hàm Tử ở đâu? Là gì? Trận Hàm Tử diễn ra trên đoạn sông Hồng, đoạn từ ngã ba sông Luộc đến Thăng Long. Trận Hàm Tử là tên gọi một số trận đánh trong lịch sử giữ nước của người Việt chống phương Bắc như Trận Hàm Tử thời Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt 1285 quân Đại Việt do Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Chiêu Thành vương, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản và tướng Nguyễn Khoái chỉ huy đánh tan cánh quân Mông Cổ do nguyên soái Toa Đô chỉ huy. Trận Hàm Tử thời chiến tranh Đại Ngu–Minh 1406-1407 quân Việt Đại Ngu do tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy phản công quân Minh do hai tướng Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy. Quân Minh thắng lớn. Trận Hàm Tử thời chiến tranh Minh–Việt 1407-1414 thủy quân Minh do tướng Trương Phụ chỉ huy đánh bại quân Việt do Đồng Bình chương sự Đặng Dung chỉ huy, chấm dứt đợt tiến quân ra bắc của Nhà Hậu Trần năm 1409. Hàm Tử liên quan đến sự kiện lịch sử nào? Sau đây là các trận đánh có liên quan đến trận Hàm Tử trong công cuộc 3 lần kháng chiến chống Mông – Nguyên Vạn Kiếp – Lục Đầu 1285 Đây là trận đánh lớn đầu tiên giữa quân đội đôi bên trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ 2 1285. Sau một loạt trận đánh trước đó, Trần Hưng Đạo quyết định lui binh về Vạn Kiếp. Ngày 11/2/1285, quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy theo hướng thủy, bộ tiến vào Vạn Kiếp. Quân ta chống giữ suốt 3 ngày liền, trước thế mạnh của địch, Hưng Đạo Vương buộc phải cho quân lui xuống thuyền. Cùng lúc, vua Trần tung quân dự bị ở Thăng Long ra Lục Đầu để chặn địch vào Thăng Long. Chương Dương cướp giáo giặc 1285 Trận Chương Dương độ diễn ra tại bến Chương Dương nay thuộc địa phận huyện Thường Tín, Hà Nội vào khoảng tháng 5, 6 Âm lịch 1285. Trong trận đánh này, các lực lượng quân Trần đã tập kích phá tan căn cứ thủy quân Nguyên, tạo mở ra thời cơ đánh úp đại bản doanh địch, tái chiếm kinh thành Thăng Long. Trận Tây Kết 1285 Sau các chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan và Toa Đô liên lạc với nhau. Tiếp đó, Vương đem binh đến Tây Kết tấn công quân Nguyên, đặt phục binh bắt sống Toa Đô. Quân ta càng đánh càng mạnh, quân địch chống cự không nổi, Ô Mã Nhi và Toa Đô phải đem tàn quân chạy ra biển, tiếp tục bị phục binh của ta đổ ra vây đánh. Địa điểm du lịch tại xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu Cụm di tích Hàm Tử – Bãi Sậy Cụm di tích này cách Trung tâm thành phố Hưng Yên khoảng 35km về phía tây nam. Nơi đây đã trải qua bao thăng trầm, biến cố, thiên tai dưới tác động của con người. Nhưng cụm di tích Bãi Sậy vẫn lưu giữ được những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng ý nghĩa. Nội dung trên cũng đã giới thiệu cho bạn đọc biết được Hàm Tử ở đâu. Bên cạnh đó, bài viết cũng phần nào giúp bạn có thêm kiến thức về lịch sử của địa danh hào hùng này. Hãy thường xuyên truy cập GiaiNgo để có thêm những thông tin bổ ích nhé!
Bến Hàm Tử ở Hải Phòng Bến Hàm Tử là bến sông bắt đầu từ đầu cầu Quay đến phố Trần Nguyên Hãn Bản đồ thời Pháp thường ghi từ phố Tam Kì đến phố Hải Dương. Bạn Đang Xem Danh sách 6 cửa hàm tử bắt sống toa đô hot nhất Bến Hàm Tử dài 476m, rộng 4m, trước cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc đất xã An Dương, trước giải phóng Hải Phòng năm 1955 thuộc khu Đường Cát. Tuy chỉ là bến tàu sông nội địa nhưng ở vào vị trí gần các chợ Sắt, An Dương và nằm ở địa đầu ngã ba sông nơi giao nhau của sông Tam Bạc và sông Cấm nên trước kia bến này cũng khá sầm uất, tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền. Bến Hàm Tử lúc mới mở gọi là Keđờ l’abatoa Quai de Lábattoir nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì ở đây có ngôi đền thiêng mang tên Tam Kỳ; sau cách mạng tháng Tám thì bến dùng tên dân gian này, từ năm 1954 đổi mang tên như hiện nay – bến Hàm Tử, một địa danh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược của quân và dân Đại Việt. Xem Thêm Tổng hợp 5 để điều chế hno3 trong phòng thí nghiệm hot nhất, bạn nên biếtBến Hàm Tử trước kia chỉ có kho, bãi, quán trọ, kể cả lô đất ở Bệnh viện Đông Y nguyên là nhà thương Hoa Kiều và sau này bệnh viện Đông Y giải thể để làm bến xe đi các tỉnh. Nay tất cả khu vực này đã được san lấp, xây dựng thành công viên Tam Kỳ – điểm nhấn quan trọng trong dải vườn hoa Trung tâm thành phố Hải Phòng kéo dài từ đập Tam Kỳ đến cổng Cảng chính. Công trình kiến trúc cũ còn lại chỉ còn đền Tam Kì. Hiện nay bến chỉ còn trong ký ức của người dân Hải Phòng vì nơi đây đã hoàn toàn thay đổi, không còn là một bến sông nữa. Cùng với cầu Quay nay gọi là cầu Tam Bạc khu vực này hợp với phố đi bộ ven sông Tam Bạc tạo thành khu vực có cảnh quan đẹp của thành phố, nhất là về đêm dưới ánh sáng đèn màu lung linh của cây cầu Tam Bạc soi bóng xuống dòng sông. Cửa Hàm Tử ở Hưng Yên gắn với địa danh Tây Kết, Chương Dương Xin nói khái quát về địa danh Hàm Tử – nơi diễn ra trận kịch chiến giữa quân đội nhà Trần do tướng quân Trần Nhật Duật chỉ huy với đạo quân thủy của Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy. Tranh minh họa tướng quân Trần Nhật Duật cùng đội quân thủy do ông chỉ huy. Trần Nhuật Duật là con trai thứ 6 của vua Trần Thái Tông, chỉ huy trận đánh Hàm Tử bắt sông tướng giặc Nguyên Mông là Toa Đô. Trận Hàm Tử là trận đánh quan trọng của quân đội nhà Trần do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông chỉ huy với quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy trong cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược năm 1285. Xem Thêm 5 các bước sơ cứu người bị đuối nước hot nhấtCửa Hàm Tử xưa thuộc xã Hàm Tử bên tả ngạn sông Hồng, gần bãi Màn Trù, nay là xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra trên đoạn sông Hồng từ ngã ba sông Luộc đến Thăng Long mà điểm quyết chiến là khu vực từ Tây Kết đến Hàm Tử, Chương Dương. Trận Hàm Tử diễn ra nhằm phá tan tuyến phòng thủ của quân Nguyên Mông trên sông Hồng, cắt đứt đường hội quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long – trên bờ bắc sông Hồng và quân Toa Đô từ Nghệ An về Thăng Long theo đường thuỷ dọc sông Hồng. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5/1285. quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy cùng với quân của viên tướng Triệu Trung nhà Nam Tống đã nhanh chóng giành thắng lợi. Chiến thắng trận Hàm Tử góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, quét sạch quân giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt buộc Tổng chỉ huy quân địch là Thoát Hoan phải rút chạy về nước vào tháng 6 năm 1285. Chiến thắng Hàm Tử là một chiến công vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Vì vậy địa danh Hàm Tử đã được đặt tên cho nhiều đường phố ở Hà Nội và các nơi, trong đó có Hải Phòng như để nhắc nhở về hào khí Đông A thủa xưa. Top 6 cửa hàm tử bắt sống toa đô tổng hợp bởi Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny Phân tích đoạn trích thứ nhất trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Tác giả Ngày đăng 03/27/2023 Đánh giá 708 vote Tóm tắt Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, … “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Vậy nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cứ còn ghi. 1. nội dung chính của đoạn trích trên là gì ? em có nhận xét gì về các dẫn chứng mà tác giả đưa ra trong đoạn thơ , việc đưa các dẫn chứng đố có tác dụng gì ? 2. thái độ của tác giả trong đoạn trích trên được thể hiện như thế nào ? mọi người giúp em với ạ !!! Tác giả Ngày đăng 05/06/2022 Đánh giá 558 vote Tóm tắt Vậy nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc … Khớp với kết quả tìm kiếm Bến Hàm Tử lúc mới mở gọi là Keđờ l’abatoa Quai de Lábattoir nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì ở đây có ngôi đền thiêng mang tên Tam Kỳ; sau cách mạng tháng Tám thì bến dùng tên dân … Tướng Nhà Trần Chém Được Toa Đô tháng 5/1285 Tác giả Ngày đăng 12/17/2022 Đánh giá 259 vote Tóm tắt Quân An nam từ khi đánh được trận Hàm tử và trận Chương dương rồi, quân thế phấn chấn lắm. Hưng đạo vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân tông xin một mặt sai Chiêu … Khớp với kết quả tìm kiếm Bến Hàm Tử lúc mới mở gọi là Keđờ l’abatoa Quai de Lábattoir nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì ở đây có ngôi đền thiêng mang tên Tam Kỳ; sau cách mạng tháng Tám thì bến dùng tên dân … Tài liệu Tác giả Ngày đăng 06/09/2022 Đánh giá 319 vote Tóm tắt Ở cửa Hàm Tử thì Toa Đô bị bắt sống ,còn ở sông Bạch Đằng thì lẽ ra Ô Mã Nhi đã bị bắt sống nhưng hắn ta tự vẫn. Vote 0 Phản hồi 0 1 tháng trước … Khớp với kết quả tìm kiếm Bến Hàm Tử lúc mới mở gọi là Keđờ l’abatoa Quai de Lábattoir nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì ở đây có ngôi đền thiêng mang tên Tam Kỳ; sau cách mạng tháng Tám thì bến dùng tên dân … Tìm hiểu thêm về hai câu cửa hàm tử bắt sống toa đô sông Bạch Tác giả Ngày đăng 10/09/2022 Đánh giá 326 vote Tóm tắt Tìm hiểu thêm về hai câu cửa hàm tử bắt sống toa đô sông Bạch đằng giết tươi ô mã Tìm hiểu những trận chiến đó. Khớp với kết quả tìm kiếm Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ 2, 3 nhà Nguyên cử Hoàng tử Toghan Thoát Hoan cùng 2 danh tướng là Ô Mã Bạt Đô Omar Batur và Toa Đô Sougo sang đánh Đại Việt1 “Ô Mã Nhi – theo Wikipedia – tướng nhà Nguyên. Tên phiên theo Latin … BanTroik5News Tác giả Ngày đăng 05/08/2022 Đánh giá 565 vote Tóm tắt – Toa Đô không bị bắt sống ở Cửa Hàm Tử như bản dịch, đúng như Nguyễn Trãi viết, Y bị Chặn đứng hay cầm chân ở Hàm Tử quan. Chữ Cầm này của cụ … Khớp với kết quả tìm kiếm Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ 2, 3 nhà Nguyên cử Hoàng tử Toghan Thoát Hoan cùng 2 danh tướng là Ô Mã Bạt Đô Omar Batur và Toa Đô Sougo sang đánh Đại Việt1 “Ô Mã Nhi – theo Wikipedia – tướng nhà Nguyên. Tên phiên theo Latin …
cửa hàm tử bắt sống toa đô